Đề cương ôn tập môn Lịch sử Lớp 9
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương ôn tập môn Lịch sử Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập môn Lịch sử Lớp 9

Đề cương ôn tập môn Lịch sử. Phần 2: LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NAY Chuyên đề 1: VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1919 – 1930 A. VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT I. Chương trình khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp * Nguyên nhân: - Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp là nước thắng trận nhưng lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh gây ra, một mặt Pháp tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, mặt khác đẩy mạnh khai thác thuộc địa, trong đó có Đông Dương và Việt Nam. * Nội dung: So với cuộc khai thác lần thứ nhất thì đây là cuộc khai thác triệt để với quy mô và mức độ lớn hơn. Pháp tăng cường đầu tư vốn tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh. - Các ngành kinh tế của tư bản Pháp ở Đông Dương sau chiến tranh đều có bước phát triển mới. Nổi bật là sự tăng cường đầu tư và đẩy mạnh khai thác, chủ yếu ở hai ngành - nông nghiệp và khai mỏ. - Nông nghiệp: tiến hành cướp ruộng đất để phát triển các đồn diền cao su. - Khai thác mỏ: chủ yếu là mỏ than, vì ở Việt Nam có trữ lượng than nhiều và than có giá trị kinh tế rất cao. - Công nghiệp: chú ý tới công nghiệp chế biến (mở nhiều nhà máy sợi, nhà máy rượu, nhà máy điện nhà máy đường, nhà máy xay xát gạo). - Thương nghiệp: đánh thuế nặng hàng ngoại nhập vào Việt Nam, nhưng nhập nhiều hàng Pháp miễn thuế. - Giao thống vận tải: được mở mang để phục vụ khai thác. - Ngân hàng Đông Dương nắm quyền chỉ huy các ngành kinh tế ở Dông Dương. Như vậy, so với chương trình khai thác lần thứ nhất, chương trình khai thác lần thứ hai có điểm mới là Pháp tăng cường đầu tư vốn, kĩ thuật vào mở rộng sản xuất để kiếm lởi. Vì vậy, sau chiến tranh, các ngành kinh tế của tư bản Pháp ở Đông Dương đều có bước phát triển mới. Song về cơ bản, thực dân Pháp hạn chế nền công nghiệp thuộc địa phát triển, buộc nền kinh tế thuộc địa phải phụ thuộc vào chính quốc. II. Các chính sách về chính trị, văn hoá, giáo dục Mọi chính sách được thực thi ráo riết, với những bổ sung, điều chỉnh có lợi cho tư bản Pháp: - Chính sách chuyên chế triệt để, thâu tóm mọi quyền hành về tay người Pháp, vua quan Nam triều chỉ là bù nhìn, tay sai. + Chính sách “chia để trị", chia Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ khác nhau, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo. + Triệt để lợi dụng bộ máy địa chủ, cường hào ở nông thôn. - Chính sách văn hoá - giáo dục nô dịch. + Thi hành chính sách văn hoá nô dịch. + Lợi dụng sách báo công khai để tuyên truyền chính sách “khai hoá" và gieo ảo tưởng hoà bình. III. Xã hội Việt Nam phân hoá Trang 1 Đề cương ôn tập môn Lịch sử. - Phong trào cách mạng thế giới có ảnh hưởng tích cực tới phong trào cách mạng Việt Nam, thúc đẩy cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kì mới: tạo điều kiện cho việc truyền bá tư tưởng Mác – Lênin vào Việt Nam. 2. Phong trào dân tộc, dân chủ công khai (1919 – 1925) - Giai cấp tư sản dân tộc đã dấy lên phong trào chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hoá (1919) và tổ chức Đảng Lập hiến (muốn lợi dụng sự ủng hộ của quần chúng làm áp lực với Pháp, khi Pháp nhượng bộ thì sẵn sàng thoả hiệp với Pháp). - Tầng lớp tiểu tư sản tri thức: Tập hợp trong những tổ chức chính trị như Hội Phục Việt, Hội Hưng Nam, Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên... với nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi: + Mít tinh, biểu tình, bãi khoá.... + Xuất bản những tờ báo tiến bộ để cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. + Tiếng bom của Phạm Hồng Thái ở Sa Điện (Quảng Châu - Trung Quốc tháng 6 - 1924) mở màn cho thời kì đấu tranh mới của dân tộc. + Đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bôi Châu (1125) và đám tang Phan Chu Trinh (1926) v.v 3. Phong trào công nhân (1919 - 1925) - Do bị áp bức bóc lột nặng nề, lại được sự cổ vũ của các cuộc đấu tranh công nhân, thuỷ thủ Pháp và Trung Quốc ở Hải Phòng, Sài Gòn, Hương Cảng, Thượng Hải...., phong trào công nhân có bước phát triển mới. - Cuộc đấu tranh của công nhân thời kì này tuy còn lẻ tẻ, tự phát, nhưng ý thức giai cấp phát triển nhanh chóng làm cho các cơ sở tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. - Đáng kể nhất là cuộc bãi công của thợ máy xưởng Ba Son (Sài Gòn 1925). Với cuộc bãi công này,giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu đi vào đấu tranh tự giác và đã đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam - Giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng. C. HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM 1919 - 1925 I. Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917 - 1923) - Ngày 5 - 6 - 1911, từ Cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô Đốc Latut Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hoà mình vào cuộc sống lao động, đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Pháp để tìm đường cứu nước. Từ 1911 - 1917, Người đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi và châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp. - Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp gửi tới Hội nghị Véc-xai bản yêu sách đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. - Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Từ đó Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin theo Lê-nin và đứng về Quốc tế thứ ba. - Tháng 12 - 1920, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước: Kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trang 3 Đề cương ôn tập môn Lịch sử. - Những điểm mới trong phong trào cách mạng Việt Nam (1926 - 1927): Phong trào công nhân, nông dân và tiểu tư sản phát triển đã kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập biểu hiện ở đấu tranh mang tính thống nhất, trình độ giác ngộ của công nhân được nâng lên rõ rệt. II. Tân Việt Cách mạng Đảng (7 - 1928) - Hoàn cảnh: Tiền thân của Tân Việt là Hội Phục Việt ra đời vào ngày 14 - 7 - 1925, do nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương và nhóm tù chính trị Trung Kì thành lập. Sau nhiều lần đổi tên, đến tháng 7 - 1928, Hội Phục Việt chính thức lấy tên là Tân Việt Cách mạng đảng. - Thành phần: là những trí thức trẻ và thanh niên tiểu tư sản yêu nước. - Hoạt động: + Khi mới thành lập, là một tổ chức yêu nước, chưa có lập trường giai cấp rõ rệt. + Do ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cử người sang dự các lớp huấn luyện và vận động hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. + Nội bộ Tân Việt đã phân hoá thành hai khuynh hướng: khuynh hướng cải lương (đứng trên lập trường quốc gia tư sản) và khuynh hướng vô sản. + Những đảng viên tích cực nhất của Tân Việt đã họp lại, chuẩn bị thành lập một đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác-lênin. - Sự ra đời và hoạt động của Tân Việt chứng tỏ tinh thần yêu nước và nguyện vọng cứu nước của thanh niên trí thức tiểu tư sản Việt Nam. IV. Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929 1. Hoàn cảnh lịch sử - Năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác phát triển, kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng sâu rộng. - Cuối tháng 3 - 1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội), lập ra Chi bộ cộng sản đầu tiên. - Tháng 5 - 1929, Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đoàn đại biểu Bắc Kì đặt vấn đề thành lập Đảng Cộng sản, song không được chấp nhận. 2. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản - Ngày 17 - 6 - 1929, đại biểu các tổ chức Bắc Kì họp, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. - Khoảng tháng 8 - 1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kì cùng đã quyết định lập An Nam Cộng sản đảng. - Một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt cũng tích cực vận động lập các chi bộ cộng sản và xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 9 - 1929, những người cộng sản trong Tân Việt tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. 3. Ý nghĩa lịch sử - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bây giờ là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. - Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng phát triển tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng trong nhiều địa phương, tiếp tục tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng. CÂU HỎI ÔN TẬP Trang 5 Đề cương ôn tập môn Lịch sử. - Mọi quyền hành nằm trong tay người Pháp, vua quan Nam triều chỉ là bù nhìn tay sai. Nhân dân ta không được hưởng một chút quyền tự do cho dân chủ nào, mọi hành động yêu nước đều bị đàn áp khủng bố. - Thi hành chính sách “chia để trị": chia nước ta thành ba kì với ba chế độ khác nhau, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo. - Triệt để lợi dụng bộ máy địa chủ cường hào ở nông thôn về bảo vệ quyền uy và sự thống trị của Pháp. * Thủ đoạn về văn hoá: - Pháp triệt để thi hành chính sách văn hóa nổ dịch nhằm gây cho nhân dân ta tâm lí tự ti; ra sức khuyên khích các hoạt động mê tín, dị đoan, các tệ nạn xã hội như cở bạc, rượu chè. v.v - Trường học được mở rất hạn chế chủ yếu là các trường tiểu học, các trường trung học chỉ mở ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội thực chất chỉ là trường chuyên nghiệp. - Sách, báo xuất bản công khai được lợi dụng triệt để vào việc tuyên truyền chính sách "khai hóa" của thực dân và gieo rắc ảo tưởng hòa bình hợp tác với thực dân cướp nước và vua quan bù nhìn bán nước. * Mục đích của thủ đoạn đó: để phục vụ cho công cuộc đẩy mạnh khai thác, bóc lột và củng cố bộ máy chính trị của thực dân Pháp ở thuộc địa. Câu 4. Hãy phân tích thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vì sao giai cấp công nhân Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. * Phân tích: - Giai cấp địa chủ phong kiến: + Bộ phận nhỏ là đại địa chủ, giàu có lên do dựa vào Pháp, chống lại cách mạng, chúng trở thành đối tượng của cách mạng. + Bộ phận lớn là trung nông và tiểu địa chủ, bị Pháp chèn ép đụng chạm tới quyền lợi, nên ít nhiều có tinh thần chống đế quốc, tham gia phong trào yêu nước khi có điều kiện. - Giai cấp nông dân: Do bị áp bức, bóc lột nặng nề bởi thực dân và phong kiến nên nông dân Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần chống đế quốc và phong kiến, là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng. - Giai cấp tư sản: có hai bộ phận: + Tư sản mại bản có quyền lợi gắn với đế quốc, nên cấu kết chặt chẽ về chính trị với chúng. + Tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh, phát triển kinh tê'độc lập, nên ít nhiều có tinh thần dân tộc, dân chủ chống đế quốc, phong kiến, nhưng lập trường của họ không kiên định, dễ dàng thỏa hiệp, cải lương khi đế quốc mạnh. - Tầng lớp tiểu tư sản: nhạy bén với tình hình chính trị, có tinh thần cách mạng, hăng hái đấu tranh và là một lực lượng quan trọng trong cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta. - Giai cấp công nhân: là giai cấp yêu nước, cách mạng, cùng với giai cấp nông dân họ trở thành hai lực lượng chính của cách mạng và họ là giai cấp lãnh đạo cách mạng. * Vì sao giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng: - Giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến, tư sản người Việt); họ có quan hệ tự nhiên gắn bó với nông dân; kế thừa truyền thống yêu nước anh hùng và bất khuất của dân tộc. Trang 7 Đề cương ôn tập môn Lịch sử. - Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tiếp tục du nhập vào Việt Nam. Hình thái kinh tế chuyển đổi rõ rệt từ hình thái phong kiến chuyển sang hình thái tư bản chủ nghĩa. - Xã hội Việt Nam có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Câu 6. Tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam như thế nào? Vì sao tình hình thế giới đó có tác động đưa cách mạng Việt Nam theo con đường vô sản? * Tình hình thế giới: Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã làm cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế quốc phương Tây gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. - Tháng 3 - 1919, Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) thành lập. - Tháng 12 - 1920, Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời. - Tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã ảnh hưởng thuận lợi đến phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam: tác động đến sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá tư tưởng Mác - Lênin vào Việt Nam. * Nguyên nhân: Những biến chuyển của tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất có tác động rất lớn đối với cách mạng thuộc địa nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, làm cho cách mạng Việt Nam chuyển hướng theo con đường cách mạng vô sản, bởi vì: Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới giành được thắng lợi; Quốc tế thứ ba là tổ chức quốc tế bảo vệ quyền lợi cho giai cấp vô sản thế giới; các Đảng Cộng sản các nước thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh của các nước theo con đường vô sản. Câu 7. Vì sao trong những năm 1919 - 1925, giai cấp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam tổ chức các cuộc đấu tranh chống Pháp và họ đã đấu tranh như thế nào? * Nguyên nhân: - Lúc này chủ nghĩa Mác - Lênin chưa được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, cách mạng Việt Nam đang chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ tư tưởng dân chủ tư sản, nhất là hệ tư tưởng tam dân của Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc. - Giai cấp tư sản Việt Nam nhân đà làm ăn thuận lợi muốn vươn lên giành vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam. * Các cuộc đấu tranh: - Giai cấp tư sản dân tộc đã tổ chức phong trào chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hoá (1919); chống độc quyền cảng Sài Gòn, chống độc quyền xuất khẩu lúa gạo ở Nam Kì... Ngoài ra, họ còn tổ chức thành lập Đảng Lập hiến để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng làm áp lực với Pháp. - Tầng lớp tiểu tư sản tri thức: Tập hợp trong những tổ chức chính trị như Hội Phục Việt, Hội Hưng Nam, Việt Nam Nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên... với nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi: + Mít tinh, biểu tình, bãi khoá.... + Xuất bản những tờ báo tiến bộ để cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. + Tiếng bom của Phạm Hồng Thái ở Sa Điện (Quảng Châu -Trung Quốc tháng 6 - 1924) mở màn cho thời kì đấu tranh mới của dân tộc. Trang 9
File đính kèm:
de_cuong_on_tap_mon_lich_su_lop_9.doc