Chuyên đề Một số phương pháp chủ yếu trong việc dạy học phân môn văn ở khối lớp 6, 7
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Một số phương pháp chủ yếu trong việc dạy học phân môn văn ở khối lớp 6, 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Một số phương pháp chủ yếu trong việc dạy học phân môn văn ở khối lớp 6, 7

Chuyên đề : MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU TRONG VIỆC DẠY HỌC PHÂN MÔN VĂN Ở KHỐI LỚP 6,7 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã và đang được đề cập và bình luận sôi nổi. Điều đổi mới quan trọng nhất là trong giờ học, học sinh đóng vai trò chủ động, giáo viên đóng vai trò chủ đạo, có nghĩa là học sinh phải chủ động, tích cực sáng tạo để tự tìm kiếm và nắm bắt kiến thức; giáo viên là người giúp đỡ, hướng dẫn, gợi mở cho học sinh. Để đạt được mục đích hoạt động đổi mới của phương pháp dạy học môn Ngữ văn, bản thân người giáo viên phải tự tìm tòi phương pháp thích hợp nhằm gây hứng thú cho học sinh. Môn Ngữ văn trong trường THCS có vai trò rất quan trọng bởi môn học này hướng đến các nhiệm vụ chủ yếu sau : - Giúp người học biết đọc, biết viết. - Giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết thưởng thức cái hay cái đẹp của văn chương nghệ thuật. Từ đó mở mang tri thức, hình thành nhân cách của học sinh. Hơn thế nữa môn học này còn giúp cho các em sự hiểu biết phong phú về mọi mặt của cuộc sống con người, xã hội và đất nước. Bồi dưỡng cho các em một cuộc sống tâm hồn tươi đẹp, phong phú, rộng mở. Từ đó khơi dậy niềm tự hào về đất nước, dân tộc mình và tình yêu cuộc sống. - Để đạt được các yêu cầu trên thì cần chú ý hơn nữa vào giờ học tác phẩm văn học vì đây là phân môn chính trong môn học Ngữ văn. Hầu hết GV ý thức được sự cần thiết phải phân chia tác phẩm thành những mảng, những đoạn, thành các chi tiết để tìm hiểu, cảm thụ. GV cùng HS làm thành thạo khâu này trong phân tích tác phẩm nhưng lại lúng túng khi đặt nó trong chỉnh thể tác phẩm. Qua sự hướng dẫn của GV, HS có thể hiểu, hơn nữa có thể tự phân tích được câu này, hình ảnh nọ nhưng vẫn không hiểu được linh hồn của tác phẩm, không thấy được nét độc đáo, không hiểu được tư tưởng của nhà văn gởi gắm trong tác phẩm. Vì thế để thực hiện được một giờ dạy phân môn văn cho HS lớp 6,7 quả không đơn giản (vì đây là những HS đầu cấp, chưa quen với việc phân tích một tác phẩm theo nhiều khía cạnh khác nhau); nó đòi hỏi mỗi giáo viên dạy văn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm tòi sáng tạo cho mỗi giờ lên lớp, phải làm sao để học sinh cảm thấy hứng thú với phân môn này, để làm được điều đó người giáo viên cần phải nắm rõ và sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong một tiết dạy, xuất phát từ thực tế trên nên tôi chọn đề tài “Một số phương pháp chủ yếu trong việc dạy học phân môn Văn ở khối lớp 6,7”. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI : 1. Thuận lợi: - Giáo viên: được tham gia tập huấn các lớp bồi dưỡng theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng nên kịp thời nắm bắt được những đổi mới trong phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn. + Với chương trình giáo dục phổ thông đổi mới giáo viên nắm được chương trình này là yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà học sinh có thể và cần đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức. Trong giáo án, GV đã thiết kế được một hệ thống các hoạt động dạy học theo hướng đa dạng các hình thức và biện pháp lấy câu hỏi có định hướng mở làm nòng cốt giảng dạy. - Học sinh: đã có ý thức chuẩn bị tốt cho tiết học sau chủ yếu diễn ra ở nhà: soạn bài, đọc các văn bản cần thiết, thực hiện các nhiệm vụ mà giáo viên giao. Đặc biệt là HS dần dần hình thành được một thói quen tốt: thói quen tự học, tự nghiên cứu, thói quen vận dụng kiến thức được học vào thực tế giao tiếp nói và viết. - Học sinh có sự chuẩn bị đầy đủ về đồ dùng học tập. chậm rãi, tha thiết khi nhìn con ngủ, giọng xa vắng hơi buồn khi hồi tưởng về quá khứ của ngày dầu tiên đi học. b, Đọc thầm: Khi HS cần tập trung tìm hiểu hình ảnh, phép nghệ thuật, phép tu từ thì đây là lúc GV có thể áp dụng cách đọc này. Ví dụ: Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” Ngữ văn 7, tập 1, GV có thể yêu cầu HS hãy đọc thầm lại đoạn thơ 2 và cho biết từ ngữ nào được lặp lại nhiều lần? Việc lặp lại như thế có ý nghĩa gì? “Tiếng gà trưa” đã gợi lại những hình ảnh, kỉ niệm nào? c, Đọc phát hiện: chủ yếu là ở các văn bản thơ vì khi HS đọc sẽ phát hiện từ ngữ, biện pháp nghệ thuật trong quá trình đọc tác phẩm. Ví dụ: Ở bài “Cây tre Việt Nam” (Thép Mới) Ngữ văn 6, tập 2 GV có thể yêu cầu HS: Ngay phần mở đầu, tác giả đã giới thiệu những phẩm chất đáng quí của cây tre Việt Nam. Hãy tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện điều đó. Với câu hỏi này HS sẽ quan sát văn bản để phát hiện đặc điểm của cây tre. d, Tường thuật theo văn bản: chi tiết cốt truyện, hành động, tâm trạng nhân vật - Trước khi tổ chức đọc toàn văn bản, GV có thể đọc mẫu trước sau đó gọi 2, 3 HS đọc lại. Thực tế cho thấy việc đọc mẫu của GV đóng vai trò quan trọng, không chỉ đơn thuần là hướng dẫn HS cách đọc đúng, đọc hay mà còn phải bước đầu gieo vào tâm hồn HS những cảm xúc, những rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm, trước những mảnh đời của nhân vật GV đọc diễn cảm một bài thơ hay một câu chuyện tốt sẽ giúp HS hiểu bài học hơn và khuyến khích lòng say mê ngôn ngữ, hình ảnh và câu chuyện của các em. Bởi vậy, GV phải nắm vững một số kĩ thuật đọc diễn cảm như: dừng ngắt đúng lúc, lên xuống giọng, đọc nhanh chậm, liên hệ bằng mắt, sử dụng các giọng đọc khác nhau cho các nhân vật khác nhau Nói gọn lại, mỗi thể loại văn học cần có phương pháp đọc riêng. Ví dụ : ● Phương pháp đọc văn bản thơ : a. quan sát (từ vựng, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cú pháp...) b. diễn giải, giải thích (văn bản có khả năng có nhiều nghĩa) c. có thể đọc linh hoạt các giọng điệu khác nhau trong một bài thơ. Trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu (Ngữ văn 6 – tập 2) có khổ thơ được lặp lại 2 lần ở đầu và cuối bài thơ nhưng ở khổ thơ đầu đọc với giọng hồ hởi, vui tươi thể hiện sự hồn nhiên của chú bé Lượm; còn khổ thơ cuối cần đọc với giọng chậm rãi, đượm buồn vì lúc này Lượm đã hi sinh, việc lặp lại khổ thơ có ý nghĩa nhấn mạnh đến hình ảnh Lượm còn sống mãi trong tim mỗi người. Ngoài ra, cách đọc ở bài thơ này còn có rất nhiều điểm đặc biệt, linh hoạt từng đoạn thơ[ như: Nhấn mạnh vào những từ ngữ tạo hình, từ láy tượng hình: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh; những khổ thơ đặc biệt thì đọc chậm lại, gãy khúc, lắng xuống: - “Ra thế Lượm ơi” - “Lượm ơi, còn không?” ● Phương pháp đọc văn bản truyện hay tiểu thuyết : a. trước khi đọc (quan sát, đưa ra giả thuyết, chẳng hạn) b. thăm dò tình huống ban đầu (đọc kỹ những dòng đầu, trang đầu) c. đọc khám phá (nhân vật, đối thoại, mạch tự sự...) d. sau khi đọc (phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo) buộc HS phải tích cực, chủ động sáng tạo trong tiếp nhận tri thức. Hình thức câu hỏi mới đã xuất hiện nhiều, đó là loại câu hỏi yêu cầu HS lập sơ đồ, hoặc lựa chọn một số kết luận đúng trong bảng liệt kê gồm nhiều giả thiết. Loại hình câu hỏi này có tác dụng không nhỏ trong việc rèn luyện tư duy độc lập, thao tác phản ứng nhanh trong học tập cho HS. Mặt khác GV cũng cần đưa ra hệ thống câu hỏi phân hóa thành hai loại ứng với hai đối tượng: khá giỏi và trung bình. - Phạm vi câu hỏi có khi rất hẹp thuộc một từ, một câu, một hình ảnh, một biện pháp mĩ từ nhưng vẫn đòi hỏi sự suy nghĩ, sự hoạt động nhận thức sáng tạo: + Câu hỏi phải gợi mở tìm tòi vấn đề. + Câu hỏi đòi hỏi HS phải hoạt động phân tích; HS có thể tổng hợp, khái quát mới trả lời được vấn đề. + Câu hỏi phải hướng vào vấn đề trọng tâm. + Câu hỏi tái hiện có dùng cũng chỉ để dẫn câu hỏi sáng tạo. Hình thức khác nhau của hoạt động tìm tòi rất đa dạng, linh hoạt, tùy sáng kiến và dẫn dắt của GV. Có khi là một câu hỏi so sánh một biện pháp nghệ thuật để sáng tỏ ý đồ nghệ thuật của tác giả từ một từ, một chi tiết, một hình nảh, một tuyến nhân vật, có khi là câu hỏi buộc HS phải tổng hợp được nhiều tri thức cụ thể trong chỉnh thể tác phẩm mới trả lời được. Bên cạnh đó còn có loại câu hỏi yêu cầu HS luyện tập để luyện các kỹ năng: tư duy, thực hành, ứng dụng. Chẳng hạn trước các câu hỏi sau đây, HS không thể không suy nghĩ để có ý kiến của mình: Tại sao truyện lại được đặt tên là Sơn Tinh, Thủy Tinh? Nếu đổi bằng tên khác (chẳng hạn như Vua Hùng kén rể, Mỵ Nương, Bài ca chiến công của Sơn Tinh) có được không? (Sơn Tinh, Thủy Tinh, Ngữ văn 6 tập 1) Hoặc: Lê Lợi nhận gươm ở Thanh Hóa nhưng lại trả gươm ở Hồ Gươm – Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa truyền thuyết sẽ khác đi như thế nào? Vì sao tác giả dân gian không để Lê Lợi trực tiếp nhận cả chuôi gươm lẫn lưỡi gươm ở cùng một lúc? (Sự tích Hồ Gươm – Ngữ văn 6, tập 1) - Trong quá trình vấn đáp tìm tòi, để giải quyết từng vấn đề, từng câu hỏi đặt ra cho HS, tùy tình huống mà nêu thêm các câu hỏi phụ để gợi mở, dẫn dắt người đọc đi đúng hướng. Vấn đáp tìm tòi là phương pháp tích cực nhất trong các phương pháp vấn đáp. Các bước trong quy trình còn được áp dụng cho từng đối tượng khác nhau. Đối với những đối tượng trung bình GV đặt vấn đề nêu cách giải quyết vấn đề, HS giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. Đối với đối tượng khá, GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm cách giải quyết. Với những đối tượng giỏi, GV tạo tình huống có vấn đề và cung cấp thông tin, HS phát hiện và xác định vấn đề, tự đặt ra các giả thuyết, các giải pháp thích hợp. Còn với những HS xuất sắc, các em có thể tự mình phát hiện vấn đề trong những tình huống cụ thể. Biết lựa chọn vấn đề cần giải quyết và tự lực giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, sau đó mới tham khảo ý kiên bổ sung của giáo viên. 4/ Phương pháp nghiên cứu: Dạy học nêu vấn đề không chỉ hướng tới đạt kết quả cuối cùng của nhận thức mà quan trọng hơn là cung cấp cho người học phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Vì thế phương pháp nghiên cứu đòi hỏi HS phải có sự chuẩn bị, tìm tòi những vấn đề xung quanh tác phẩm, làm tốt điều này sẽ giúp các em cảm thấy hứng thú hơn trong giờ học Văn và đó chính là kĩ năng của người GV khi đưa ra yêu cầu để HS thực hiện tốt phương pháp này. Vậy nên hệ thống câu hỏi phải hướng vào các yếu tố của văn bản để nghiên cứu văn bản: a, Câu hỏi dạy đọc – hiểu: - Hỏi về đặc điểm thể loại. đã cảm thấy hứng thú hơn trong tiết văn học, những hình tượng nghệ thuật, những biện pháp tu từ không còn quá xa rời các em mà đó là những con người, sự vật trong cuộc sống đi vào văn chương. Bên cạnh đó HS cũng đã biết cách đọc hiểu một tác phẩm văn học dân gian, văn học viết theo đúng những đặc trưng thể loại tác phẩm đó. Biết tóm tắt và kể lại các văn bản đã học phần đọc – hiểu, biết kể lại sáng tạo bố cục các văn bản đã học. Bước đầu biết vận dụng những cách nói hay của dân gian, những chân lý cuộc sống trong tục ngữ vào việc nói viết hằng ngày Việc gây hứng thú trong giờ dạy bước đầu cả giáo viên và học sinh đều phải làm việc tích cực, thời gian chuẩn bị bài nhiều hơn, học sinh phải hoạt động hơn trong giờ học, sẽ có những thiếu sót, vấp váp, e ngại lúc mới áp dụng khi học sinh phải đi từ cách học thụ động : nghe giảng, ghi chép sang cách học tích cực: phát biểu ý kiến, tham gia thảo luận, dự các trò chơi... Tuy nhiên với bản tính ham học hỏi, thích thú với việc được tôn trọng, hấp dẫn bởi vừa chơi vừa học... Bên cạnh sự nhiệt tình tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Người viết tin tưởng rằng những biện pháp đã nêu sẽ thành công tốt đẹp trong giờ dạy Ngữ văn THCS. 2. Kiến nghị: - Nhu cầu, hứng thú, sở thích, nguyện vọng, lối sống, động cơ, ý chí của con người luôn thay đổi theo thời gian và phụ thuộc nhiều vào điều kiện sống, vì thế cần xây dựng một kế hoạch giảng dạy có hệ thống theo từng giai đoạn cụ thể. Ngoài ra HS từng vùng, miền cũng có những đặc điểm xã hội khác nhau về phương pháp dạy học nên đó là vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết của các cấp lãnh đạo. - Đề nghị Phòng giáo dục thành phố hoặc nhà trường đầu tư thêm băng hình, tư liệu, tranh ảnh để phục vụ trong quá trình giảng dạy. Phú Lâm, ngày 10 tháng 2 năm 2014 Người thực hiện Vũ Thị Hiền Linh
File đính kèm:
chuyen_de_mot_so_phuong_phap_chu_yeu_trong_viec_day_hoc_phan.doc