Chuyên đề Dạy học ngữ văn theo hướng bám sát đối tượng

doc 25 trang giaoanhay 09/11/2025 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Dạy học ngữ văn theo hướng bám sát đối tượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Dạy học ngữ văn theo hướng bám sát đối tượng

Chuyên đề Dạy học ngữ văn theo hướng bám sát đối tượng
 CHUYÊN ĐỀ 
 DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO HƯỚNG BÁM SÁT ĐỐI TƯỢNG 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
 M. Gorki đã nói: “ Học văn là học để làm người”, chừng ấy đủ để cho ta thấy vai trò to lớn 
của môn Văn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh. Nhưng để việc học văn 
trở thành hứng thú, niềm say mê cho mỗi học trò quả thật không hề đơn giản. Đặc biệt làm thế 
nào cho phù hợp đối với mọi đối tượng học sinh trong một lớp đều tiếp thu và nhận thức được 
cái hay, cái đẹp của môn học này quả là một vấn đề khó khăn. 
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm, tiếp xúc với nhiều đối tượng thì câu hỏi 
làm thế nào để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn cho các em luôn là câu hỏi thường trực trong 
tôi. Vì thế trong quá trình dạy học tôi luôn chú ý đúc rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy để từng 
bước giúp các em học sinh của mình tiếp thu - cảm thụ cái hay cái đẹp của môn Ngữ văn. 
 Dạy Ngữ văn thật sự là một công việc vất vả, khó khăn. Đặc biệt đối tượng học sinh yếu, 
kém.Tinh thần ham học còn hạn chế. Đối với các em động cơ và mục tiêu của việc học gần như 
không có, đến trường, ghi chép, học bài như là điều bị ép buộc. Cho nên có những học sinh ngồi 
trong lớp không chú ý, không chịu phát biểu xây dựng bài và hoàn toàn thụ động. Vì vậy sau khi 
học xong các em nắm bắt tác phẩm một cách hời hợt, chưa sâu sắc. Hiểu về Tiếng Việt còn mơ 
hồ và gần như không biết tạo lập một văn bản chuẩn mực. Sở dĩ có tình trạng trên là vì các em 
không chịu tiếp xúc tác phẩm, không chuẩn bị bài, có chăng chỉ đối phó cho qua chuyện. Sau 
khi học xong các em về nhà cũng không học lại bài cũ chủ yếu đi chơi hoặc tham gia lao động 
giúp gia đình. Về phía phụ huynh cũng không quan tâm phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Vì 
thế chất lượng học tập của các em về môn Ngữ văn nói riêng và các môn học khác nói chung còn 
rất thấp.
 Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình 
dạy học của mình : “Dạy học Ngữ văn theo hướng bám sát đối tượng”. Đây có thể chưa phải là “ 
sáng kiến” nhưng là những kinh nghiệm - điều tôi tâm đắc và đúc rút trong quá trình dạy học của 
mình. Tôi kính mong quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp cùng chia sẻ và góp ý để chuyên 
đề này được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hơn nữa về chất lượng dạy học 
Ngữ văn trong nhà trường hiện nay.
II. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP.
1. Thực trạng của đề tài:
 Dạy Ngữ văn là một công việc hết sức khó khăn, vất vả. Nó đòi hỏi cả người dạy và người 
học phải kiên trì, nhẫn nại và có lòng đam mê. Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra các giải 
pháp và hình thức dạy học hiệu quả đối với từng đối tượng học sinh. Làm được điều này sẽ kích 
thích được niềm say mê văn học, lòng yêu ngôn ngữ dân tộc, ý thức vươn lên của các em học 
sinh vốn được xem là hay tự ti, ỉ lại, chậm hiểu nhưng lại chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong tình 
hình học tập môn Ngữ văn hiện nay.
 1 giai đoạn thứ hai là suy nghĩ các câu hỏi trong phần đọc hiểu văn bản ở SGK. Sau đó trả lời các 
câu hỏi ấy theo cách hiểu của bản thân.
 Đối với phần Tiếng Việt và Tập làm văn cũng vậy, nếu khâu chuẩn bị bài trước ở nhà của 
học sinh mà chu đáo thì viêc học trên lớp thật sự rất hiệu quả
 Qua quá trình dạy học tại đây tôi thấy tuy các em học sinh yếu, ý thức chuẩn bị bài ở nhà là 
rất hạn chế. Nhưng nếu người giáo viên tận tình, khéo léo hướng dẫn cho các em có hệ thống câu 
hỏi chi tiết cụ thể thì việc soạn bài lại được các em tích cực chú trọng. Để việc soạn bài thật sự 
có hiệu quả và hữu ích thì bản thân người giáo viên phải thật sự nhiệt tình hướng dẫn học sinh 
soạn đúng và đủ theo tinh thần là tìm hiểu trước. Nhắc các em không được chép sách giải hay 
viết dài vào vở soạn cho có lệ mà cần chuẩn bị thật tốt những gì để thầy và trò cùng có một giờ 
khám phá hiệu quả. Muốn làm được điều đó – để truyền được ngọn lửa đam mê văn học vào các 
em thì người giáo viên cũng cần làm tốt công tác chuẩn bị của mình. Tôi tin chắc rằng một giáo 
viên không nghiên cứu trước bài, không chuẩn bị tốt thì cũng không thể hướng dẫn học sinh 
chuẩn bị tốt được. Vì thế để hướng dẫn các em chuẩn bị tốt bản thân ta cần chuẩn bị tốt đã. Đặc 
biệt là dạy phần văn bản giáo viên cần đọc kĩ tác phẩm trước, nghiền ngẫm bằng cả tâm hồn để 
khám phá cái hay cái đẹp về nội dung và nghệ thuật. Cũng cần nghiên cứu kĩ về phần tác giả, 
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để thấy được thông điệp mà văn bản muốn gửi gắm. Sau đó 
hướng dẫn các em thông qua hệ thống câu hỏi mà SGK đề cập.
 Ta có thể đặt ra cho các em các câu hỏi buộc các em phải chuẩn bị trước để trả lời được 
như: 
 - Tác phẩm viết về điều gì?
 - Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào?
 - Tác giả sử dụng cách viết như thế nào?
 - Trong tác phẩm, em có ấn tượng nhất với chi tiết (sự việc) nào?
 - Tác phẩm gợi cho em những suy nghĩ gì?
 VD: khi dạy hướng dẫn học sinh chuẩn bị soạn các bài: “ Mùa xuân nho nhỏ, Viếng lăng 
Bác” ngoài các câu hỏi trong SGK giáo viên có thể gợi ý thêm các câu hỏi khác như: Thanh Hải 
sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ trong hoàn cảnh nào? Hoàn cảnh ấy có tác dụng gì khi thể 
hiện chủ đề, tư tưởng của bài thơ?
 Tác giả Viễn Phương sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác vào thời gian nào? Hoàn cảnh ra 
sao? Hoàn cảnh ấy tác động đến cảm xúc của tác giả như thế nào?...
 Còn đối với phần Tập làm văn và phần Tiếng Việt nếu giáo viên không hướng dẫn các em 
soạn bài trước thì với 45 phút không đủ để các em nắm được kiến thức và vận dụng nó vào thực 
hành. Vì vậy với bất kì tiết học nào cũng cần hướng dẫn cho học sinh xem trước và soạn bài ở 
nhà. Đồng thời chúng ta cần kiểm tra việc chuẩn bị của các em qua khâu kiểm tra bài cũ. 
b.2. Cách thức ổn định tổ chức và kiểm tra bài cũ:
 Khi bắt đầu tiết học giáo viên thường hỏi: “ Lớp hôm nay vắng mấy, lớp trưởng? Đó là 
những bạn nào?”... Theo tôi thay vì hỏi như vậy người giáo viên khi đã nhận lớp một vài tuần 
 3 3. Ý kiến nào là xác đáng, trong 4 ý kiến cho rằng "Truyền kì mạn lục" là tập 
truyện có đặc điểm:
 A. Văn xuôi cổ viết bằng chữ Hán.
 B. Văn xuôi cổ (lối văn biền ngẫu), viết bằng chữ Hán.
 C. Văn xuôi cổ (biền ngẫu), viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều thi liệu, văn liệu 
 và điển tích.
 D. Văn xuôi cổ (văn biền ngẫu), viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều thi liệu, văn 
 liệu và điển tích; cuối mỗi truyện có lời bình; một số truyện có xen câu thơ, bài thơ.
 4. Theo em, trong các ý kiến sau, ý kiến nào là xác đáng ?
 A. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và bài thơ "Lại bài 
 viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông là 2 tác phẩm khác nhau.
 B. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và bài thơ "Lại bài 
 viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông là 2 tác phẩm giống nhau.
 C. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và bài thơ "Lại bài 
 viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông vừa có điểm giống nhau, vừa có điểm khác nhau:
 - Giống nhau về đối tượng (nhân vật Vũ Nương) về đề tài (số phận của người 
 phụ nữ), về cảm hứng nhân đạo.
 - Khác nhau về ngôn ngữ (chữ Hán, chữ Nôm), về thể loại (truyện văn xuôi cổ/ 
 thơ thất ngôn bát cú Đường luật), vv
 5. Nhân vân chính của "Chuyện người con gái Nam Xương" là ai ?
 A. Trương Sinh
 B. Vũ Nương và Trương Sinh.
 C. Bé Đản.
 D. Phan Lang và Linh Phi.
 6. Phần 2 của "Chuyện người con gái Nam Xương" có ý nghĩa gì về nội dung và 
nghệ thuật ?
 A. Câu chuyện có hậu , cái kết có hậu.
 B. Làm nổi bật chất thần kì của câu chuyện.
 C. Khắc hoạ, tô đậm, hoàn chỉnh vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương.
 D. Thể hiện tính bi kịch và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
 E. Tất cả A, B, C, D đều đúng.
 7. Trong các câu văn sau, câu nào nói lên được vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp nhan sắc 
của Vũ Nương - mẫu người phụ nữ lí tưởng ngày xưa ?
 A. Chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới 
 về.
 5 - bình rơi trâm gãy
 - sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió
 - khóc tuyết bông hoa rụng cuống
 - kêu xuân cái én lìa đàn.
 A. Hình ảnh so sánh, ẩn dụ.
 B. Hình ảnh tượng trưng.
 C. Điển tích.
 D. Thi liệu, văn liệu (cổ điển).
 12. Ý kiến nào chính xác nhất nói lên giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ 
 thuật của tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" ?
 A. Giàu giá trị nhân đạo
 B. Cốt truyện li kì, hấp dẫn, chặt chẽ.
 C. Kết hợp hài hoà yếu tố tự sự và trữ tình.
 D. Khắc hoạ tâm lí nhân vật sâu sắc làm nổi bật bi kịch điển hình về người phụ 
 nữ thời loạn lạc.
 E. Tất cả A, B, C, D đều đúng.
 Đáp án 
 Câu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
 Trả lời D A D C B E B C C A D E
 Ta cũng có thể sử dụng câu hỏi tự luận nhưng nên sử dụng những câu có vấn đề để học 
sinh suy nghĩ liên hệ, xâu chuỗi dựa trên những hiểu biết, cảm nhận của mình để trả lời theo cách 
hiểu 
 Bài thơ “ Viếng lăng Bác” đã nói hộ lòng ta những tình cảm nào đối với Bác Hồ? Từ câu 
hỏi bài cũ ta có thể giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Đó là giáo dục lòng biết ơn kính 
trọng Bác, ý thức học tập, làm theo tấm gương đạo đức của Người và sống xứng đáng. 
 Song song với việc kiểm tra bài cũ ta cũng cần kiểm tra việc soạn bài và làm bài tập ở nhà 
của các em. Cần chú ý vì có nhiều em soạn qua loa đối phó, chép sách giải, chép bài của bạn.... 
Những trường hợp này cần nhắc nhở phê bình còn những học sinh chuẩn bị tốt ta có thể tuyên 
dương cộng điểm, cũng cần thu vở soạn của cả lớp chấm theo đợt. 
 Người giáo viên cần duy trì thái độ vui vẻ, thân thiện, chân thành, cởi mở tạo tâm thế tự 
tin, chủ động hào hứng cho các em từ đầu tiết học và thật sự nhiệt tình với học sinh trong suốt 
quá trình truyền tải kiến thức. Và để bắt đầu vào giờ học khâu giới thiệu bài giáo viên cũng cần 
chú ý không nên bỏ qua.
 7 Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử Fat Man ném xuống Nagasaki, Nhật Bản cao 
 đến 18 km – Hơn 70.000 người chết
 Và đặt các câu hỏi:
 Em có biết hai bức tranh này không? 
 Nhờ đâu mà em biết? (có thể qua tivi, đài, báo...)
 Nó gợi cho em những suy nghĩ gì?
 Từ đó ta có thể giới thiệu: đầu tháng 8 năm 1945 Mĩ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống 
hai thành phố của Nhật Bản là Hi-rô-xi-ma và Na-ga-xa-ki làm hơn hai triệu người dân Nhật Bản 
thiệt mạng và còn di họa đến bây giờ. Thế kỉ XX, thế giới phát minh ra nguyên tử hạt nhân đồng 
thời cũng phát minh ra vũ khí hủy diệt, giết người hàng loạt khủng khiếp. Từ đó đến nay và cả 
trong tương lai mai sau nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tiêu diệt cả thế giới luôn luôn 
tiềm ẩn và đe dọa nhân loại. Đấu tranh vì một thế giới hòa bình luôn là những nhiệm vụ vẻ vang 
nhưng cũng khó khăn nhất của nhân dân các nước. Hôm nay chúng ta nghe tiếng nói của một 
 9 Với những đoạn văn này phải đọc thật sự trôi chảy, mạch lạc, nhẹ nhàng, uyển chuyển mới 
cảm nhận được phần nào cảm xúc dạt dào của tác giả trong một tác truyện ngắn đầy chất thơ. 
 Đọc đúng và truyền cảm không chỉ có tác dụng với phân môn Văn mà cả phân môn Tập 
làm văn, Tiếng Việt cũng cần thiết. Nếu các em đọc không đúng, không hay các ngữ liệu thì việc 
phân tích để tìm ra các đơn vị kiến thức sẽ rất khó khăn. 
 VD văn bản mẫu: “ Khát vọng hòa nhập, dâng hiến cho đời” của tiết 126 bài “Nghị luận về 
một đoạn thơ, bài thơ” SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 76, 77. Đây là một văn bản hay, giàu cảm 
xúc, hình ảnh. Nếu đọc tốt các em đã cảm nhận được vẻ đẹp lấp lánh của một bài nghị luận văn 
hoc. Và từ đó kích thích sự tò mò khám phá ở các em và chúng ta dễ dàng dẫn dắt học trò đi vào 
tìm hiểu các đơn vị kiến thức khác như: Khái niệm nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; yêu cầu 
về nội dung và hình thức của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ...
 Do vậy nhờ giọng đọc chuẩn mực, diễn cảm và sự nhiệt tình hướng dẫn các em đọc tốt 
chắc chắn giờ học Ngữ văn sẽ trở nên hấp dẫn thú vị, lôi cuốn học sinh. Bên cạnh đó muốn giờ 
học thật sự có chất lượng đòi hỏi người giáo viên cần chuẩn bị được hệ thống câu hỏi phát triển 
tư duy cho các em.
b.5. Đưa hệ thống câu hỏi để phát triển tư duy cho học sinh:
Tư duy có tư duy bậc thấp và tư duy bậc cao.
Tư duy bậc thấp gồm biết và hiểu:
- Biết: Là khả năng nhận biết và nhớ lại thông tin.
- Hiểu: Là khả năng hiểu được ý nghiã của các khái niệm, hiện tượng
Tư duy bậc cao: Gồm
- Vận dụng : Sử dụng khái niệm trong các tình huống mới.
- Phân tích: Chia nhỏ thông tin thành các phần có liên quan với nhau
- Tổng hợp: sắp xếp thông tin để tạo ra một tổng thể mới.
- Đánh giá: Định giá trị dựa trên các tiêu chí.
 Muốn phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thì trong giờ học cần có hệ thống câu 
hỏi đa dạng và phong phú, phù hợp với đối tượng học sinh. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận 
thức có thể có các loại vấn đáp như:
- Vấn đáp tái hiện (dựa vào trí nhớ không cần suy luận được sử dụng khi cần tái hiện, củng cố 
thiết lập mối quan hệ với những kiến thức đã học)
- Vấn đáp giải thích minh họa (nhằm làm sáng tỏ một vấn đề nào đó có dẫn chứng minh họa)
- Vấn đáp tìm tòi (phát hiện, đàm thoại để tìm lời đáp cho những câu hỏi)
Qua hệ thống câu hỏi học sinh sẽ có được những định hướng cơ bản để tìm hiểu, đánh giá, 
thưởng thức tác phẩm văn học.
Căn cứ vào đạc trưng của hoạt động học tập Ngữ văn có thể sử dụng các kiểu câu hỏi đi từ đơn 
giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến khái quát.
 11

File đính kèm:

  • docchuyen_de_day_hoc_ngu_van_theo_huong_bam_sat_doi_tuong.doc